Quy hoạch- kế hoạch

Tình hình kinh tế xã hội

Tình hình kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng năm 2016
          Năm 2016 là năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và tổ chức nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, do đó nhiệm vụ năm 2016 là rất nặng nề, vừa xây dựng, triển khai nhiều đề án, chương trình, kế hoạch cho cả giai đoạn vừa phải phấn đấu hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ năm 2016, tạo đà cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm 2016 - 2020. Bước vào thực hiện kế hoạch, kinh tế vĩ mô tăng trưởng thấp hơn dự kiến, nhiều diễn biến bất lợi do thiên tai, hạn hán xảy ra trên nhiều vùng của cả nước… ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển của các địa phương; trong bối cảnh đó, Trung ương khóa mới đã thể hiện bản lĩnh trong chỉ đạo điều hành, lãnh đạo toàn dân vượt qua các khó khăn, thách thức, tạo khí thế mới cho công cuộc phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trước những biến động, Trung ương đã điều chỉnh một số định hướng, có những chính sách tác động đến phát triển của tỉnh([1]) và sự điều chỉnh ưu tiên về phân bổ nguồn lực phát triển trong bối cảnh mới cũng sẽ ảnh hưởng đến Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư trung hạn giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh. Đồng thời, kiện toàn nhân sự lãnh đạo các cấp, các ngành cũng tạo động lực phát triển giai đoạn mới cho tỉnh.

Trong tỉnh, khô hạn diễn biến gay gắt, đặc biệt ở các huyện Krông Nô, Cư Jút và phía Bắc của huyện Đắk Mil, đời sống của bà con nông dân bị ảnh hưởng nghiêm trọng, các nhà máy thủy điện thiếu nước phát điện; một số ngành sản xuất suy giảm do diễn biến thị trường; Dự án Alumin Nhân Cơ tiếp tục chậm tiến độ; ảnh hưởng rất lớn đến thực hiện kế hoạch của tỉnh. Trước tình hình đó, dưới lãnh đạo sáng tạo của Tỉnh ủy, giám sát hiệu quả của HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện các công việc trọng tâm của năm 2016 và của cả giai đoạn, cũng như xử lý các vấn đề cấp bách phát sinh. Đồng chí Bí thư, Chủ tịch và UBND tỉnh tổ chức nhiều cuộc họp liên ngành, rà soát và xử lý những khó khăn vướng mắc trong tăng trưởng kinh tế, chỉ đạo các biện pháp tháo gỡ cụ thể; tổ chức các đoàn công tác của tỉnh trực tiếp làm việc với các doanh nghiệp, nhà máy lớn để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Với sự nỗ lực của hệ thống chính trị, các doanh nghiệp và nhân dân, tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2016 đạt được nhiều kết quả:

1. Tăng trưởng kinh tế

Ước tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) đạt 16.244 tỷ đồng, tốc độ tăng GRDP ước đạt 7,08%/KH 9%, không đạt kế hoạch đề ra (năm 2015 tăng 7,15%), trong đó: Khu vực nông nghiệp dự kiến tăng 5,82%/KH 5,06%, khu vực nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, vượt kế hoạch đề ra; Khu vực công nghiệp - xây dựng dự kiến tăng 9,72%/KH 31,29% (công nghiệp tăng 9,37%, xây dựng tăng 10,47%), khu vực công nghiệp tăng thấp so với dự kiến, đã ảnh hưởng rất lớn đến tăng trưởng chung; Khu vực dịch vụ ước tăng 7,66%/KH 6,3%, vượt kế hoạch đề ra; Khu vực thuế ước tăng 7,56%/KH 15,01%, không đạt kế hoạch.

2. Phát triển công nghiệp

a) Sản xuất công nghiệp: Chỉ số IIP ước tăng 9,2% so với năm 2015([2]). Tình hình sản xuất công nghiệp tương đối ổn định, cơ bản các sản phẩm tăng trưởng so với năm trước, sản lượng một số sản phẩm tăng cao do nhu cầu thị trường([3]). Tuy nhiên, một số sản phẩm chủ lực của tỉnh không đạt kế hoạch đề ra như: Sản lượng điện sản xuất tăng thấp do ảnh hưởng của hạn hán, sản lượng Alumin không đạt do nhà máy Alumin Nhân Cơ chậm tiến độ, một số ngành hàng chế biến gặp khó khăn do thiếu nguyên liệu([4]) hoặc nhu cầu thị trường giảm... dẫn đến tăng trưởng của ngành công nghiệp không cao như dự kiến.

b) Tiến độ các dự án công nghiệp trọng điểm: Đến nay, dự án Alumin Nhân Cơ đã đi vào hoạt động và sản xuất được hydrate, dự kiến cuối năm sản xuất được Alumin([5]), tuy vậy dự án chậm tiến độ 11 tháng so với kế hoạch từ đầu năm, ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng của ngành công nghiệp; Dự án nhà máy luyện nhôm hiện đang hoàn thiện xưởng gia công, xưởng điện phân nhôm và trạm biến áp, dự kiến năm 2017 sẽ tiến hành lắp đặt thiết bị. Dự án điện năng lượng mặt trời([6]) chưa đi vào triển khai, hiện đang thẩm định thiết kế cơ sở giai đoạn 1. Dự án cấp điện nông thôn([7]) giai đoạn 3 đã triển khai thi công cho một số thôn, buôn xã biên giới và vùng đặc biệt khó khăn. Nhìn chung, các dự án công nghiệp trọng điểm đều chậm so với tiến độ đề ra.

c) Phát triển khu, cụm công nghiệp: Tập trung nguồn lực đầu tư Khu công nghiệp Nhân Cơ để đáp ứng kịp thời cho công nghiệp luyện nhôm, hiện đã bàn giao đủ 128 ha cho nhà đầu tư để triển khai nhà máy luyện nhôm. Tình hình các khu, cụm công nghiệp còn lại không có thay đổi đáng kể.

Tỷ lệ lấp đầy Khu công nghiệp Tâm Thắng là 76%, không thu hút thêm nhà đầu tư so với năm 2015. Trong 05 cụm công nghiệp thì chỉ có Cụm công nghiệp Thuận An([8]) thu hút tương đối các nhà đầu tư, Cụm công nghiệp BMC đã hoàn thành đầu tư cơ sở hạ tầng nhưng không thu hút được nhà đầu tư, hiện đang tiến hành thủ tục định giá, chuyển đổi; các cụm công nghiệp còn lại ([9]) hiện chưa được triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng, cần rà soát, xem xét chuyển đổi mục đích sử dụng phù hợp, đồng thời cần xem xét kỹ chủ trương đầu tư các cụm công nghiệp, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển của từng địa phương.

            3. Phát triển nông nghiệp và nông thôn

a) Trồng trọt: 6 tháng đầu năm, hạn hán diễn ra nghiêm trọng, đặc biệt ở các huyện Krông Nô, Cư Jút và phía Bắc của huyện Đắk Mil, hầu hết các công trình thủy lợi thiếu nước hoặc tạm ngưng hoạt động, ảnh hưởng đến hơn 23 ngàn ha cây trồng vụ Đông Xuân 2015-2016([10]), kéo dài đến đầu vụ Hè Thu 2016, làm chậm thời vụ gieo trồng của cả năm. Trước tình hình đó, các cấp, các ngành đã chủ động thông tin, khuyến cáo người dân về tình hình khô hạn, chuyển đổi cây trồng phù hợp, sử dụng nước hiệu quả và giảm thiểu tối đa thiệt hại ([11]). Về mặt dài hạn, cần vận động nhiều nguồn vốn: ODA, ngân sách Trung ương để đầu tư các công trình thủy lợi trọng điểm và đẩy nhanh tiến độ các dự án cơ sở hạ tầng nông thôn đang triển khai. Trong 6 tháng cuối năm, thời tiết diễn biến thuận lợi, mưa nhiều và phân bổ đồng đều nên phần nào khắc phục được hậu quả của hạn hán.

Ước cả năm, toàn tỉnh đã gieo trồng được trên trên 303 ngàn ha, đạt kế hoạch; tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 381,3 ngàn tấn, đạt 92,1% kế hoạch. Cây lâu năm phát triển ổn định([12]), dự kiến sản lượng tăng khá, hiện đang vào mùa vụ thu hoạch cà phê, diễn biến giá thị trường thuận lợi, đặc biệt là giá cà phê tăng cao nhất trong 5 năm qua, thu nhập của bà con nông dân sẽ tăng đáng kể. Tình hình dịch bệnh trên cây trồng được kiểm soát. Tuy nhiên, tình trạng một số loại cây trồng được người dân phát triển ồ ạt vẫn chưa được khuyến cáo hiệu quả, ngành nông nghiệp cần tăng cường hướng dẫn người dân sản xuất trên những chân đất có thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, giảm rủi ro cho người dân.

b) Chăn nuôi và thủy sản: Tổng đàn chăn nuôi tăng khá([13]), chủ yếu là do giá bán đầu ra các sản phẩm chăn nuôi ổn định, người chăn nuôi tích cực đầu tư phát triển đàn, xu thế liên kết trong chăn nuôi tiếp tục nhân rộng. Riêng đàn bò tăng do hiệu quả của các dự án hỗ trợ giống bò, cung cấp sinh kế và giảm nghèo bền vững cho người dân, đồng thời người dân có xu hướng chuyển sang nuôi bò vì có hiệu quả kinh tế cao hơn. Dịch bệnh được kiểm soát, tiến hành vệ sinh, khử trùng, tiêu độc đồng bộ trên địa bàn toàn tỉnh. Tăng cường công tác kiểm dịch động vật, kiểm tra chất cấm trong chăn nuôi. Tình hình nuôi trồng thủy sản ổn định([14]).

c) Phát triển nông thôn: Bộ mặt nông thôn tiếp tục được đổi mới, kết cấu hạ tầng nông thôn tiếp tục được cải thiện, ứng dụng kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp được người dân và doanh nghiệp quan tâm triển khai đem lại hiệu quả tích cực . Tiếp tục triển khai các dự án ổn định dân di cư tự do, trình các Bộ, ngành Trung ương xem xét, bố trí vốn đầu tư cho các dự án ổn định dân cư biên giới, dân di cư tự do, tái định cư thủy điện. Chú trọng phát triển kinh tế trang trại, bước đầu mang lại hiệu quả([15]). Tiếp tục đẩy mạnh phong trào chung tay xây dựng nông thôn mới, lũy kế đến nay bình quân mỗi xã đạt 10,6 tiêu chí/xã, tăng 1,1 tiêu chí/xã, đạt kế hoạch; đạt 04 xã nông thôn mới theo kế hoạch, lũy kế đến nay toàn tỉnh có 05 xã nông thôn mới. Trên cơ sở Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các ngành, các cấp đang tích cực chuẩn bị triển khai sau khi có các hướng dẫn của Trung ương.

Tuy nhiên, xây dựng nông thôn mới vẫn còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là do thiếu nguồn lực, một số nơi áp dụng các tiêu chí còn máy móc, chưa phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, đối với các chương trình mục tiêu quốc gia, đến nay Trung ương chưa có văn bản thẩm định vốn theo quy định của Luật Đầu tư công nên địa phương chưa thể giao kế hoạch vốn để triển khai.

d) Lâm nghiệp: Công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng có nhiều chuyển biến. Độ che phủ rừng tăng, đạt 39,1%([16]). Trồng rừng tập trung đạt 1.020 ha/KH 1.000 ha, vượt kế hoạch đề ra. Rà soát và ban hành kế hoạch ngăn chặn 11 điểm nóng phá rừng trên địa bàn tỉnh. Thực hiện tốt công tác giao khoán, quản lý bảo vệ rừng, diện tích thực hiện ước đạt 33.203ha/KH 34.290 ha, chuyển 1.090 ha rừng còn lại qua quản lý rừng tập trung. Tổng diện tích rừng được chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng đạt 151 ngàn ha. Diện tích trồng rừng thay thế ước đạt 1.895 ha/KH 2.674 ha ([17]). Toàn tỉnh xảy ra 318 vụ phá rừng, giảm 97 số vụ giảm 192,36 ha bị phá so với năm trước.

Tuy nhiên, tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng vẫn diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về tài nguyên rừng, nhất là địa bàn các huyện Đắk Song, Đắk Glong và thị xã Gia Nghĩa. Công tác quản lý bảo vệ rừng còn nhiều sơ hở, có dấu hiệu tiếp tay của các bộ cơ sở, cán bộ quản lý rừng, bảo kê cho các đối tượng chặt phá rừng, tình trạng sang nhượng đất rừng trái phép diễn biến phức tạp, gây thiệt hại rất lớn tài nguyên rừng ([18]). Việc giao đất, giao rừng theo Chương trình 135 còn nhiều yếu kém, hầu hết diện tích giao khoán không thực hiện đúng mục đích, dẫn đến rừng bị tàn phá nghiêm trọng.

e) Tình hình triển khai các dự án nông, lâm nghiệp: Các cơ quan chức năng của tỉnh đã tích cực hỗ trợ các nhà đầu tư([19]),... xử lý các vấn đề có liên quan đến đất đai, các thủ tục đầu tư để đưa các dự án sớm đi vào hoạt động.

Tuy vậy, nhìn chung các dự án nông, lâm nghiệp vẫn chậm tiến độ, chưa thể đi vào hoạt động chủ yếu do vướng mắc công tác bàn giao, thỏa thuận mặt bằng. Các dự án nông, lâm nghiệp chưa có đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế - xã hội địa phương nhưng lại để xảy ra nhiều vụ phá rừng trên quy mô lớn và gia tăng tình trạng tranh chấp, xung đột, gây bất ổn an ninh trật tự ([20]). Qua đó, các ngành cần rà soát thực trạng sử dụng đất, xác định ranh giới các vùng đất đã thỏa thuận xong; đối với các vùng còn chưa thống nhất, trước mắt không thay đổi hiện trạng giữa hai bên doanh nghiệp và người dân, trong quá trình xử lý phải tính đến nguyện vọng chính đáng và sinh kế của người dân.

4. Phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch

a) Thương mại: Nhu cầu hàng hóa của người dân được các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh bảo đảm cung ứng đủ, không xảy ra tình trạng khan hiếm hàng hóa hay tăng giá đột biến. Hoạt động kiểm tra, kiểm soát thị trường được tăng cường([21]), chống hàng giả, hàng kém chất lượng và gian lận thương mại, nhất là đối với mặt hàng phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ năm 2016 ước đạt 12.000 tỷ đồng, đạt kế hoạch đề ra. Hạ tầng thương mại đã có bước phát triển đáng kể, trong năm 2016 đã có 02 trung tâm thương mại đi vào hoạt động tại huyện Cư Jút và huyện Đắk R’lấp. Tuy vậy, hạ tầng thương mại khu vực nông thôn vẫn còn hạn chế([22]), chủ yếu vẫn là chợ truyền thống ([23]), có nhiều chợ đã xuống cấp, không đủ tiêu chuẩn theo quy định; số siêu thị, trung tâm thương mại không nhiều, người dân ít có sự lựa chọn đa dạng.

b) Kim ngạch xuất, nhập khẩu: Xuất khẩu ước đạt 650 triệu USD([24]); nhập khẩu ước đạt 120 triệu USD. Xuất khẩu đạt thấp do biến động bất lợi của thị trường thế giới, các nhà máy sản xuất, chế biến nông sản thiếu nguồn nguyên liệu. Nhìn chung, doanh nghiệp của tỉnh tham gia xuất nhập khẩu còn khá hạn chế và chưa chủ động được thị trường.

c) Vận tải hành khách và hàng hóa: Vận tải tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu đi lại của nhân dân, lưu chuyển hàng hóa của nền kinh tế([25]). Trật tự vận tải từng bước đi vào nề nếp; phương tiện, năng lực và chất lượng vận tải dần được nâng cao([26]).

d) Du lịch: Ngành du lịch và dịch vụ lữ hành tăng trưởng khá, tổng lượt khách ước đạt 250 ngàn lượt, tăng 27%([27]). Tích cực triển khai các hoạt động xúc tiến và kết nối du lịch([28]). Xây dựng trình cấp thẩm quyền các đề án bảo tồn văn hóa bản địa ([29]). Toàn tỉnh hiện có 06 dự án khu, điểm du lịch đang được đầu tư([30]), một số điểm du lịch hoàn thiện bước đầu và đi vào khai thác, phục vụ nhu cầu du lịch. Nhìn chung, tuy được nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng đến điểm, khu du lịch nhưng việc đầu tư phát triển của các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn tỉnh vẫn còn chậm, chưa phát huy tốt giá trị, điều kiện tự nhiên sẵn có của địa danh du lịch.

5. Đầu tư phát triển và thu hút đầu tư

a) Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 10.700 tỷ đồng, tăng 14% so với năm trước. Riêng kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn của tỉnh theo Phương án mới nhất trình Quốc hội thông qua, tổng vốn đầu tư giảm 21%, riêng nguồn Trung ương hỗ trợ có mục tiêu giảm 45%, giảm gần 2.500 tỷ đồng so với thông báo trước đây của Trung ương; tuy vậy, trong bối cảnh ngân sách khó khăn, Trung ương đã rất ưu tiên cân đối cho tỉnh Đắk Nông, cao hơn mức bình quân chung của khu vực Tây Nguyên (mức giảm bình quân chung của Tây Nguyên là 50%). Như vậy, do Trung ương cắt giảm vốn đầu tư nên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016 - 2020 của tỉnh. Trước tình hình đó, các ngành cần chủ động nghiên cứu, tham mưu cấp thẩm quyền ban hành các chính sách huy động vốn đầu tư hiệu quả.

b) Tổng kế hoạch vốn đầu tư phát triển năm 2016 là 1.685 tỷ đồng, tăng 5% so với năm trước; Ước giải ngân đạt 89,9% kế hoạch, tăng 8,1% so với cùng kỳ, nếu loại trừ một số nguồn vốn chưa có nguồn để giải ngân và Trung ương chưa thẩm định vốn thì tỷ lệ giải ngân đạt 97,53%. Luật Đầu tư công và các quy định mới của Trung ương mới áp dụng nên nhiều đơn vị còn lúng túng, việc vận hành công tác đầu tư xây dựng theo cơ chế mới chưa tốt, bên cạnh đó, một số dự án gặp vướng mắc khó khăn trong công tác bồi thường giải phóng mặt bằng nên triển khai, thực hiện không đúng tiến độ đề ra. Trong năm 2016, theo quy định của Trung ương và chỉ đạo của UBND tỉnh, các dự án chậm giải ngân, bị Trung ương thu hồi và điều chuyển vốn, chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm trước UBND tỉnh.

c) Tình hình thực hiện dự án ODA, FDI, NGO: Các dự án ODA đảm bảo tiến độ theo hiệp định, tiếp tục vận động 05 dự án đầu tư với tổng mức đầu tư là 1.741 tỷ đồng, trong đó có 03/05 dự án đang vận động chuẩn bị ký Hiệp định vay, 02 dự án chuẩn bị đầu tư([31]). Thu hút FDI tăng khá, toàn tỉnh hiện có 08 dự án FDI đang thực hiện, với tổng mức đầu tư là 163,5 triệu USD; 03 dự án đầu tư mới đã được chấp thuận chủ trương đầu tư với tổng mức đầu tư là 42 triệu USD. Tiếp tục triển khai các dự án NGO theo thỏa thuận, ký kết bổ sung và tiếp nhận 02 dự án NGO.

d) Thu hút và xúc tiến đầu tư: Thu hút đầu tư tăng khá, trong năm, tiến hành cấp mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư cho 20 dự án với tổng vốn đầu tư là 653 tỷ đồng; Cấp mới, điều chỉnh chủ trương đầu tư cho 26 dự án với tổng mức đầu tư 1.020 tỷ đồng. Công tác xúc tiến đầu tư được chú trọng về hiệu quả và đổi mới về phương thức, tích cực tư vấn, hướng dẫn về quy trình thủ tục đầu tư, xây dựng hoàn chỉnh hồ sơ thông tin các dự án kêu gọi đầu tư.

            6. Tài chính, ngân hàng và thu chi ngân sách

a) Ngân hàng: Lãi suất giảm nhẹ, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 6.705 tỷ đồng, tăng 22%. Tín dụng tăng trưởng cao, tổng dư nợ cho vay ước đạt 17.321 tỷ đồng, tăng 20%. Mạng lưới các tổ chức tín dụng được mở rộng, phát triển([32]) đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiết kiệm và tín dụng của nhân dân, chú trọng triển khai các gói tín dụng ưu đãi, tập trung vào các lĩnh vực thế mạnh của tỉnh([33]).

b) Thu, chi ngân sách: Thu ngân sách nhà nước ước đạt 1.610 tỷ đồng, đạt dự toán HĐND tỉnh giao, trong đó thu thuế, phí, lệ phí đạt 1.265 tỷ đồng/KH 1.330 tỷ đồng, thu biện pháp tài chính 345 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện ước đạt 5.433 tỷ đồng, đạt 115% dự toán địa phương giao, tăng 14% so với năm trước, các khoản chi thực hiện kịp thời theo đúng chế độ. Tuy nhiên, phần ngân sách địa phương dành cho đầu tư còn khá hạn chế (tính riêng các nguồn thu của tỉnh thì chỉ cân đối qua đầu tư 4,7%), sẽ ảnh hưởng đến khả năng phát triển trong dài hạn của tỉnh; do đó, phải cân đối lại chi tiêu của tỉnh để cân bằng giữa nhu cầu ngắn hạn và khả năng phát triển dài hạn của tỉnh.

7. Phát triển doanh nghiệp và cải thiện môi trường kinh doanh

a) Phát triển doanh nghiệp: Ước cả năm có 431 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới([34]), tăng 20%, số vốn đăng ký đạt 1.200 tỷ đồng. Số doanh nghiệp đăng ký giải thể tăng 7,7%; số doanh nghiệp tạm dừng hoạt động tăng 85%, điều này cho thấy tình hình sản xuất, kinh doanh còn nhiều khó khăn. Lũy kế tổng số doanh nghiệp đăng ký là 3.882 doanh nghiệp, trong đó có 1.916 doanh nghiệp đang hoạt động, số doanh nghiệp đang hoạt động chỉ chiếm 49% số doanh nghiệp đăng ký, gây khó khăn trong công tác quản lý doanh nghiệp cũng như quản lý thuế. Trong thời gian tới, cần sự phối hợp chặt chẽ liên ngành để quản lý hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, hạn chế tối đa thành lập doanh nghiệp để buôn bán hóa đơn trái phép.

b) Cải thiện môi trường kinh doanh: Thành lập và vận hành Trung tâm Hành chính công của tỉnh. Thông báo đường dây nóng để các doanh nghiệp kiến nghị các khó khăn, vướng mắc. Ký kết với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Vận hành tốt Hệ thống đăng ký doanh nghiệp quốc gia, bảo đảm rút ngắn thời gian đăng ký doanh nghiệp, triển khai việc kê khai thuế qua mạng điện tử, nộp thuế qua các ngân hàng. Nhìn chung, kết quả về cải thiện môi trường kinh doanh của tỉnh vẫn còn hạn chế, tính cạnh tranh yếu, các doanh nghiệp đánh giá thấp môi trường kinh doanh của tỉnh, gây khó khăn cộng hưởng cho công tác thu hút đầu tư.

c) Kết quả đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước: Đã tiến hành các thủ tục giải thể 06 công ty lâm nghiệp hoạt động không hiệu quả, thực hiện cổ phần hóa 04 doanh nghiệp theo kế hoạch. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước([35]). Tuy nhiên, nhìn chung công tác cổ phần hóa các công ty nông, lâm nghiệp đều bị chậm về tiến độ, nguyên nhân chủ yếu là do âm vốn của chủ sở hữu hoặc nợ phải trả quá cao ([36]) và vướng mắc trong việc xác định giá trị doanh nghiệp.

8. Kết cấu hạ tầng

a) Hạ tầng đô thị: Tỷ lệ đô thị hóa đạt 16,3%, không tăng so với năm trước do các vùng trung tâm huyện mới như xã Đắk Buk So (huyện Tuy Đức), xã Quảng Khê (huyện Đắk Glong) vẫn chưa lên thị trấn. Lập nhiệm vụ và được Chính phủ phê duyệt nhiệm vụ đồ án quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Đắk Nông đến năm 2035 và tầm nhìn đến năm 2050. Triển khai lập đề án phân loại đô thị Đắk Buk So, huyện Tuy Đức và đề án thành lập thị trấn Quảng Khê, huyện Đắk Glong.

b) Hạ tầng giao thông: Ước cả năm nhựa hóa được 136 km đường giao thông, nâng tỷ lệ nhựa hóa đường toàn tỉnh từ 53% lên 57%([37]). Được Trung ương đồng ý chủ trương đầu tư dự án đường sắt đa dụng Tây Nguyên; Tăng mức mức phân bổ vốn bảo trì đường bộ cho Quỹ bảo trì đường bộ địa phương; Quyết định chuyển tuyến Tỉnh lộ 4 thành Quốc lộ 28 kéo dài. Đề nghị bổ sung kinh phí bảo trì đường bộ trên các tuyến Quốc lộ thuộc địa bàn tỉnh.

c) Hạ tầng cấp, thoát nước, cấp điện: Hạ tầng cấp nước đô thị tương đối hoàn chỉnh, cơ bản đáp ứng nhu cầu người dân, tỷ lệ cấp nước sạch tại các đô thị đạt 92%, triển khai đầu tư xây dựng hệ thống thoát nước mưa cho các đô thị và hệ thống xử lý nước thải tại thị xã Gia Nghĩa.

Toàn tỉnh hiện có 230 công trình cấp nước đang sử dụng, tỷ lệ người dân nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh cả năm ước đạt 84%. Tuy nhiên, hệ thống nước sạch nông thôn bị hư hỏng nhiều, công tác quản lý vận hành, bảo trì còn nhiều bất cập. Hạ tầng điện tiếp tục được đầu tư, cải tạo, ước cả năm toàn tỉnh có 99% số thôn buôn có điện, và 96% số hộ dân được sử dụng điện.

d) Hạ tầng thủy lợi: Chú trọng đầu tư phát triển hệ thống thủy lợi ([38]). Các đơn vị quản lý khai thác công trình thủy lợi quản lý chặt chẽ nguồn nước, nạo vét kênh mương, có kế hoạch linh hoạt trong việc điều chỉnh phân phối sử dụng nước hợp lý, tiết kiệm, đáp ứng được 68% diện tích có nhu cầu tưới.

            9. Văn hóa và thể dục, thể thao

            Phục vụ tốt nhu cầu văn hóa cho nhân dân trong dịp lễ, Tết, tổ chức nhiều hoạt động văn hóa nổi bật([39]), thu hút được đông đảo sự tham gia của người dân. Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc tiếp tục được chú trọng([40]); Tiếp tục triển khai Đề án sưu tầm, bảo tồn phát huy giá trị hiện vật lịch sử, văn hóa tỉnh Đăk Nông, giai đoạn 2016-2020; Triển khai khảo sát, điều tra văn hóa phi vật thể và hoa văn thổ cẩm trên địa bàn tỉnh. Hoạt động thư viện, bảo tàng đã có nhiều đổi mới trong hoạt động([41]). Thiết chế văn hóa được quan tâm, tiếp tục được đầu tư xây dựng, tổ chức các hoạt động phục vụ nhân dân vùng sâu, vùng xa, thực hiện tốt công tác “đưa thông tin về cơ sở”, bảo đảm nhu cầu văn hóa cho nhân dân([42]). Đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”.

            Phong trào thể dục thể thao tiếp tục được đẩy mạnh từ tỉnh đến cơ sở, tổ chức thành công nhiều giải thể thao cấp tỉnh và giải thể thao quần chúng, thu hút đông đảo quần chúng tham gia, trong đó tiêu biểu như: Đăng cai tổ chức thành công Giải Quần vợt đồng đội Quốc gia - Cup Vietravel năm 2016; phối hợp tổ chức Giải xe đạp nữ toàn quốc mở rộng Tranh Cúp Truyền hình An Giang lần thứ XVII năm 2016. Số người dân tham gia tập thể dục thể thao thường xuyên ước đạt 24%. Tham gia 13 giải thi đấu thể thao khu vực, toàn quốc và thế giới đạt 48 huy chương các loại([43]).

10. Giáo dục và đào tạo

            Mở rộng quy mô giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu của xã hội([44]). Tiếp tục triển khai đổi mới giáo dục và đào tạo; tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên. Chú trọng và đầu tư cơ sở vật chất trường lớp, cơ sở hạ tầng dần được cải thiện. Tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp THPT bảo đảm an toàn, nghiêm túc, tích cực hỗ trợ cho các thí sinh có hoàn cảnh khó khăn, tỷ lệ tốt nghiệp của tỉnh đạt 90,6%([45]). Công tác xây dựng trường chuẩn quốc gia đạt kết quả khá. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục học sinh dân tộc thiểu số chậm được cải thiện, tỷ lệ học sinh bỏ học còn cao. Cơ sở vật chất trường lớp chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Việc phân luồng học sinh THCS và giáo dục hướng nghiệp còn hạn chế. Đội ngũ giáo viên nhìn chung chưa đồng đều về cơ cấu chuyên môn. Cơ cấu giáo viên còn nhiều bất cập, đội ngũ giáo viên, nhân viên đặc biệt ở bậc học mầm non chưa đảm bảo cho công tác dạy và học. Việc thu chi các khoản đóng góp trong trường học chưa được kiểm soát chặt chẽ.

            11. Y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân

            Tổ chức tốt công tác khám chữa bệnh, chú trọng nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh tại các bệnh viện; các chế độ chính sách được thực hiện theo đúng quy định([46]). Một số dịch bệnh có số mắc tăng cao nhưng đã được kiểm soát hiệu quả, ngăn chặn hiệu quả([47]). Duy trì, giám sát 24/24, chủ động, kịp thời nắm bắt tình hình dịch bệnh tại các cơ sở y tế và cộng đồng. Trang thiết bị y tế tại các cơ sở được sử dụng có hiệu quả hơn; nhiều trang thiết bị đã được điều chuyển giữa các đơn vị, giảm chi phí đầu tư mua sắm; Hợp tác với ngành y tế thành phố Hồ Chí Minh nâng cao trình độ cho các cơ sở khám chữa bệnh, tăng tỷ lệ người dân khám chữa bệnh tại chỗ. Chú trọng và tăng cường kiểm tra, bảo đảm tốt công tác vệ sinh an toàn thực phẩm đặc biệt là dịp lễ, Tết.

              Tuy nhiên, nguồn nhân lực y tế chưa đồng đều, chất lượng chưa cao, nhất là tuyến y tế cơ sở; Còn tồn tại tình trạng các cơ sở y tế có tỷ lệ người dân khám chữa bệnh thấp, tỷ lệ sử dụng cơ sở hạ tầng chưa cao. Tình trạng chuyển viện đối với khám chữa bệnh bằng Bảo hiểm Y tế còn cao, thanh toán ngoài tỉnh chiếm đến 50% quỹ bảo hiểm y tế. Việc chấp hành các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được phối hợp liên ngành hiệu quả, chưa được cải thiện đáng kể.

12. Công tác giảm nghèo và an sinh xã hội

Tích cực triển khai các chính sách an sinh, bảo trợ xã hội, tổ chức đánh giá các mô hình giảm nghèo hiệu quả để triển khai nhân rộng. Trình Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết giảm nghèo bền vững; Trình HĐND tỉnh ban hành Nghị quyết về chính sách hỗ trợ học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số thuộc diện hộ nghèo. Kết quả điều tra hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2015 theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều chiếm tỷ lệ 19,26% tăng so với chuẩn cũ([48]). Triển khai hỗ trợ kịp thời cho các hộ dân bị ảnh hưởng của hạn hán, chi trả trợ cấp đảm bảo cho các đối tượng xã hội([49]). Công tác chăm sóc người có công đạt kết quả tích cực. Tổ chức thăm, tặng quà đối tượng chính sách có công các đơn vị, cá nhân tiêu biểu nhân dịp Tết Nguyên đán và ngày Thương binh liệt sỹ([50]). Hỗ trợ xây dựng nhà tình nghĩa đối với người có công với cách mạng([51]). Tổ chức khảo sát, tìm kiếm hài cốt liệt sĩ tại xã Nâm Njang, huyện Đắk Song.

Tuy nhiên, công tác giảm nghèo còn gặp nhiều khó khăn, nguồn lực thực hiện các chính sách giảm nghèo chưa đáp ứng được nhu cầu, nguồn lực Trung ương phân bổ chậm. Khả năng tái nghèo cao trong bối cảnh hạn hán xảy ra thường xuyên và gay gắt hơn, ảnh hưởng đến mùa vụ của người dân. Công tác chăm sóc trẻ em còn nhiều hạn chế, số trẻ bị tai nạn tăng, sân chơi cho trẻ em còn thiếu, chưa được quan tâm đúng mức.

13. Đào tạo lao động và giải quyết việc làm

Số lao động được tạo việc làm mới và việc làm tăng thêm là 18 ngàn lượt người. Quản lý chặt chẽ lao động nước ngoài([52]). Hướng dẫn các công ty nông lâm nghiệp xây dựng phương án sử dụng lao động và giải quyết lao động dôi dư khi sau khi sắp xếp, đổi mới([53]). Hỗ trợ cho vay vốn tạo việc làm khoảng 900 dự án từ Quỹ quốc gia về việc làm, cho vay. Tư vấn về chính sách pháp luật lao động, giới thiệu việc làm cho hơn 4.500 lượt người. Chú trọng phát triển mở rộng mạng lưới các cơ sở dạy nghề và mở thêm nhiều ngành nghề đào tạo mới phù hợp với thị trường lao động. Ước tổ chức đào tạo nghề cho 3.800 người. Tuy nhiên, nhìn chung công tác đào tạo nghề gắn liền với giải quyết việc làm còn gặp nhiều hạn chế, chất lượng đầu ra chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.

14. Phát triển khoa học công nghệ; Công tác thông tin, truyền thông và báo chí

Công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật được quan tâm([54]), chú trọng tổ chức các hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Đồng bộ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 cho các cơ quan nhà nước, đem lại những kết quả tích cực, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của tỉnh. Hoạt động quản lý đo lường và chất lượng có sự biến chuyển rõ rệt và triển khai đồng bộ.

Nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan góp phần hiện đại hóa nền hành chính nhà nước. Tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, định hướng thông tin báo chí, đặc biệt là các sự kiện quan trọng, việc nổi cộm, nhạy cảm diễn ra trên địa bàn tỉnh. Tổ chức họp báo cung cấp thông tin báo chí kịp thời, giải trình, góp ý các vấn đề đáng lưu ý trên địa bàn mà báo chí đã phản ánh. Tổ chức thành công giao ban báo chí khu vực Tây Nguyên.

15. Quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường

            a) Công tác quản lý đất đai: Đăng ký chỉ tiêu nhu cầu sử dụng đất giai đoạn 5 năm kỳ cuối của tỉnh, điều chỉnh Quy hoạch sử dụng đất toàn tỉnh, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2020, lập danh mục các dự án cần thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; điều chỉnh bảng giá đất của tỉnh giai đoạn 2015-2019 trình HĐND tỉnh thông qua. Tiến hành bảo đảm quy định các thủ tục giao đất, thu hồi đất, cho thuê đất([55]). Tiến hành đo đạc bản đồ địa chính được diện tích 25,1 ngàn ha. Tiếp nhận và xử lý gần 19 ngàn hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình, cá nhân.

            Tuy nhiên, nhìn chung, việc triển khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa được chú trọng. Văn phòng Đăng ký đất đai mới hoạt động nên chưa đi vào nề nếp. Công tác đo đạc, lập bản đồ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các công ty nông, lâm nghiệp còn nhiều bất cập, tình trạng lấn chiếm, xâm hại tài nguyên rừng khá phổ biến và chưa được giải quyết hiệu quả. Công tác định giá đất còn chậm trễ, ảnh hưởng đến tiến độ triển khai các dự án.

            b) Quản lý khoáng sản: Tăng cường công tác quản lý thăm dò và khai thác khoáng sản([56]), cấp 05 giấy phép thăm dò khoáng sản, 06 giấy phép hoạt động trong lĩnh vực tài nguyên nước, phê duyệt 05 khu vực khoáng sản. Tiến hành lập quy hoạch tài nguyên nước đến năm 2025 và định hướng 2035. Tuy nhiên, công tác quản lý hoạt động khai thác khoáng sản của các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa thống nhất và đồng bộ, việc kiểm tra chưa được tổ chức thường xuyên, dẫn đến liên tục xảy ra tình trạng khai thác trái phép (cát, vàng), ảnh hưởng đến môi trường và đời sống của nhân dân.

            c) Bảo vệ môi trường: Xây dựng cơ sở dữ liệu môi trường tỉnh Đắk Nông. Triển khai kế hoạch bảo vệ môi trường sông Đồng Nai năm 2016, các hoạt động hưởng ứng ngày Môi trường Thế giới. Quản lý thống nhất về thu gom, vận chuyển xử lý chất thải y tế và chất thải nguy hại từ các cơ sở sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, nhiệm vụ bảo vệ môi trường cấp xã chưa được chú trọng, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật môi trường còn hạn chế. Vẫn còn tồn tại tình trạng các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chưa chấp hành các quy định của pháp luật về môi trường, xả thải trực tiếp ra môi trường không qua hệ thống xử lý.

            16. Công tác cải cách hành chính; Tổ chức bộ máy; Tư pháp, nội chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo

            a) Công tác cải cách hành chính đạt được những kết quả nhất định. Tập trung rà soát 53 thủ tục hành chính thuộc 12 nhóm, xây dựng phương án đơn giản hóa 20 thủ tục hành chính, ban hành chuẩn hóa 35 bộ thủ tục hành chính, cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia và công khai thủ tục trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh. Tiến hành sắp xếp, kiện toàn Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả. Thành lập Trung tâm Hành chính công của tỉnh là đầu mối tập trung để thực hiện việc giải quyết thủ tục hành chính. Tuy nhiên, việc công bố, công khai thủ tục hành chính tại một số cơ quan, đơn vị còn chậm, một số đơn vị chưa chú trọng đúng mức công tác cải cách thủ tục hành chính.

            b) Tổ chức bộ máy: Tổ chức bầu cử của tỉnh diễn ra thành công, số cử tri đi bầu cao, cơ cấu, thành phần, số lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp bảo đảm theo quy định. Công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được triển khai. Ban hành tuyển dụng mới 190 trường hợp bằng hình thức thi tuyển. Cán bộ, công chức, viên chức được tham gia các lớp bồi dưỡng góp phần nâng cao kiến thức, kỹ năng phục vụ công tác.

            c) Công tác tư pháp: Tổ chức thẩm định 80 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật của HĐND tỉnh, UBND tỉnh, góp ý 164 dự thảo của Trung ương và địa phương, 100% văn bản quy phạm pháp luật được thẩm định trước khi ban hành. Công tác rà soát, kiểm tra văn bản được thực hiện nghiêm túc và thường xuyên. Hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật ngày càng phong phú, đa dạng và chú trọng phù hợp với từng đối tượng. Các dịch vụ công về tư pháp ngày càng được nâng cao về chất lượng cũng như số lượng, đáp ứng nhu cầu của công dân, tổ chức([57]).

            d) Công tác tiếp dân, xử lý khiếu nại, tố cáo: Công tác tiếp dân có nhiều tiến bộ([58]), khiếu nại tố cáo có xu hướng giảm, chủ động xử lý những vấn đề nổi cộm, xử lý khiếu nại tố cáo ngay tại địa phương, cấp huyện và cấp xã được chú trọng. Tiến hành 10 cuộc thanh tra kinh tế - xã hội([59]). Công khai lịch tiếp công dân, đăng kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo trên cổng thông tin điện tử. Tuy nhiên, nhìn chung, khiếu kiện đông người và vượt cấp vẫn diễn biến phức tạp, có yếu tố tổ chức cầm đầu, xúi dục, kích động của các phần tử xấu; một số trường hợp đã được rà soát, giải quyết đúng quy định nhưng vẫn khiếu kiện kéo dài, vượt cấp.

17. Công tác tôn giáo và dân tộc

Hoạt động tôn giáo cơ bản ổn định, tuân thủ pháp luật, an ninh chính trị trong vùng tôn giáo được giữ vững. Các tổ chức tôn giáo duy trì tốt mối quan hệ thường xuyên, thiện chí với cấp ủy, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, thực hiện tốt phương châm sống “tốt đời, đẹp đạo”, “đồng hành cùng dân tộc”. Tiếp tục triển khai và đánh giá các chương trình, chính sách dân tộc, ổn định dân cư, tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số ngày càng nâng cao trình độ, ổn định cuộc sống, từng bước xóa đói giảm nghèo một cách bền vững. Tuy nhiên, việc hỗ trợ vốn một số chương trình từ Trung ương còn quá thấp, phân khai vốn còn chậm trễ, tiến độ hỗ trợ một số đối tượng chính sách còn chậm do cần phải rà soát lại các đối tượng chính sách.

18. Bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại

            a) Tình hình quốc phòng vững chắc, thế trận quốc phòng toàn dân được củng cố, nâng cao. Chủ động đấu tranh, ngăn chặn hoạt động của các thế lực thù địch. Luôn nâng cao tinh thần sẵn sàng chiến đấu, bồi dưỡng lực lượng. Tình hình trên truyến biên giới cơ bản ổn định([60]), chủ quyền lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới được giữ vững, chưa xảy ra các hoạt động căng thẳng, gây mất ổn định hai bên biên giới, xây dựng thế trận “biên phòng toàn dân” vững mạnh.

            b) Tình hình an ninh cơ bản ổn định, tăng cường các biện pháp giải quyết tranh chấp, khiếu kiện bảo đảm an ninh nông thôn. Mở 03 đợt cao điểm trấn áp tội phạm, bảo vệ tuyệt đối an toàn Đại hội Đảng các cấp, Tết Nguyên đán và Bầu cử Quốc hội, HĐND các cấp. Tình hình an ninh trật tự có nhiều chuyển biến tích cực; tội phạm về trật tự xã hội giảm so với cùng kỳ, tỷ lệ điều tra phá án đạt kết quả cao 91,5% số vụ được phá. Tình trạng sử dụng hóa đơn giá trị gia tăng khống nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản nhà nước, mua bán hàng giả, kém chất lượng, trốn thuế, nợ thuế còn xảy ra nhiều. Tai nạn giao thông xảy ra 46 vụ, giảm 6 vụ so cùng kỳ, nguyên nhân chủ yếu là do không đi đúng phần đường, thiếu quan sát, chưa chấp hành nghiêm pháp luật về giao thông.

            c) Duy trì nhiều hoạt động tăng cường củng cố quan hệ với tỉnh Mondulkiri, tổ chức ký kết thành công và đi vào triển khai chương trình thỏa thuận Hợp tác phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2016 - 2020 giữa tỉnh Đắk Nông và tỉnh Mondulkiri. Tích cực tham dự các buổi gặp gỡ đối tác nước ngoài nhằm quảng bá giới thiệu tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Nâng cao chất lượng lãnh sự, quản lý tốt đoàn ra, đoàn vào.

Tổ chức Hội nghị tổng kết hợp tác Đắk Nông - Lâm Đồng giai đoạn 2010-2015 và Kế hoạch hợp tác giai đoạn 2016 - 2020 tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; tập trung hợp tác phát triển lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; lĩnh vực du lịch nghỉ dưỡng, lĩnh vực khai thác và chế biến sâu khoáng sản, đặc biệt là alumin, nhôm.

19. Đánh giá chung

Theo Nghị quyết số 23/2015/NQ-HĐND ngày 10/12/2015 của HĐND tỉnh về thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2016 đề ra 16 nhóm chỉ tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, ước kết quả thực hiện như sau:

a) 13 nhóm chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, gồm: Tổng vốn đầu tư toàn xã hội; Thu ngân sách; Hạ tầng giao thông; Hạ tầng cấp, thoát nước và đô thị; Hạ tầng cấp điện; Tốc độ tăng dân số; Lao động và việc làm; Giảm nghèo; Y tế; Giáo dục; Văn hóa; Môi trường và Nông thôn mới.

b) 03 nhóm chỉ tiêu chủ yếu không đạt, gồm:

- Tăng trưởng kinh tế (GRDP) không đạt kế hoạch đề ra, tăng 7,08%/KH 9%, chủ yếu do nhà máy Alumin Nhân Cơ chậm tiến độ. Trường hợp, Alumin sản xuất theo kế hoạch đạt 200 ngàn tấn (cả năm 2016 ước sản xuất chỉ được 30 ngàn tấn). Thì tốc độ tăng ngành Công nghiệp xây dựng sẽ đạt 33%/KH 31,2%, vượt kế hoạch đề ra, đồng thời tốc độ GRDP sẽ đạt 9,58%, vượt kế hoạch đề ra.

- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không đạt, nguyên nhân do lĩnh vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng thấp hơn dự kiến nên chuyển biến cơ cấu kinh tế giữa các lĩnh vực thấp; lĩnh vực nông nghiệp vẫn chiếm trên 50% tổng cơ cấu/KH 49,8%; Lĩnh vực công nghiệp xây dựng 13,7%/KH 15,8%.

- GRDP bình quân đầu người ước đạt 36,3 triệu đồng/KH 38 triệu đồng, không đạt kế hoạch đề ra, nguyên nhân do dân số bình quân sau điều tra rà soát tăng lên 633 ngàn người/KH 591 ngàn người (tăng 42 ngàn người so với kế hoạch). Nếu dân số theo như dự kiến kế hoạch và không tăng đột biến do điều tra, thì GRDP bình quân sẽ đạt 38,87 triệu đồng, vượt kế hoạch đề ra.

c) 02 chỉ tiêu thành phần không đạt:

- Tỷ hệ hộ dân nông thôn được cấp nước hợp vệ sinh 82%/KH 84% (thuộc nhóm chỉ tiêu Hạ tầng cấp, thoát nước và đô thị), không đạt kế hoạch do trong năm 2016, Trung ương không phân bổ các nguồn vốn dự kiến đầu tư các công trình cấp nước, do đó tỉnh chỉ đủ nguồn lực để nâng cấp các công trình cấp nước. Hiện tại toàn tỉnh có 230 công trình cấp nước được sử dụng, tuy nhiên, nhiều công trình hư hỏng, không có vốn để nâng cấp, sửa chữa.

- Tỷ lệ che phủ rừng (thuộc nhóm chỉ tiêu về Môi trường) đạt 39,1%/KH 40%, không đạt kế hoạch do diện tích đạt độ che phủ để thành rừng trong năm ước đạt 935 ha. Các diện tích trồng rừng tập trung (1.020 ha) và rừng thay thế (1.895 ha) trong năm 2016, sau thời gian khoảng 3-4 năm mới được tính vào độ che phủ rừng.

Như vậy, trong bối cảnh khó khăn hơn rất nhiều so với năm 2015, tình hình thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội năm 2016 ước đạt khá. Trong 16 nhóm chỉ tiêu, dự kiến 13/16 nhóm chỉ tiêu ước đạt hoặc vượt kế hoạch đề ra, chiếm 81%; còn 3/16 nhóm chỉ tiêu ước không đạt chiếm 19%. Kết quả phấn đấu thực hiện kế hoạch năm 2016 cơ bản đạt kế hoạch đề ra, là nền tảng để xây dựng kế hoạch năm 2017 và cơ sở để tiếp tục phấn đấu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020.



[1] Định hướng phát triển vùng Tây Nguyên thích ứng với biến đổi khí hậu; Đóng cửa rừng hoàn toàn, cấm chuyển đổi diện tích rừng qua mục đích sử dụng khác; Ưu tiên đầu tư chống hạn, đầu tư các công trình thủy lợi trọng điểm kết hợp với các công trình thủy lợi quy mô phù hợp; Không đánh đổi môi trường lấy dự án đầu tư...

[2] Năm 2015, chỉ số IIP tăng 10,5%.

[3] Như: Cồn tinh luyện, cà phê bột, ván MDF.

[4]Sản phẩm đường, đậu phộng, đậu nành sấy.

[5] Bình quân, khoảng 1,7 tấn hydrate sẽ sản xuất ra 1 tấn alumina, giá bán của hydrate khoảng 200 USD/tấn.

[6] Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công Thương thống nhất cho phép xây dựng thí điểm, dự án có công suất 30MW, tổng vốn  đầu tư 90 triệu USD, giai đoạn 01 thí điểm 01MW, vốn đầu tư 03 triệu USD.

[7] Cấp điện cho 182 thôn, buôn; tổng mức đầu tư là 711 tỷ đồng.

[8]Có 15 Doanh nghiệp đang kí hoạt động với diện tích đăng ký là 17,7 ha (07 doanh nghiệp tư đã đi vào hoạt động; 01 nhà đầu tư tạm ngưng; 04 nhà đầu tư đang đầu tư xây dựng cơ bản).

[9]CCN BMC, CCN Quảng Tâm, CNN Đắk Song, CNN Krông Nô.

[10]Trong mùa khô năm 2015-2016, hạn hán đã ảnh hưởng đến trên 23 ngàn ha cây trồng. Ngoài ra, trên 7.700 hộ dân với 36 ngàn nhân khẩu bị thiếu nước sinh hoạt, trong đó 1.500 hộ dân phải mua nước sinh hoạt giá cao, có nơi lên đến 120 ngàn đồng/m3. Ước thiệt hại trong lĩnh vực nông nghiệp trong đợt hạn hán là 1.020 tỷ đồng.

[11] Tiến hành các biện pháp chống hạn như: nạo vét các công trình kênh mương, lắp đặt máy bơm dã chiến và điều tiết nước, hỗ trợ tiền điện, dầu và các suất chống hạn cho các hộ gia đình khó khăn, chủ động lập danh sách cứu đói cho các hộ dân bị ảnh hưởng nặng nề.

[12] Toàn tỉnh hiện có 199,5 ngàn ha cây công nghiệp chủ lực, trong đó cà phê đạt 125,6 ngàn ha, tăng 6.119 ha. Hồ tiêu đạt 27,5 ngàn ha, tăng 11,5 ngàn ha. Cao su đạt 31,3 ngàn ha, tăng 600 ha; Điều 15 ngàn ha, giảm 118 ha.

Riêng cây cao su, người dân tiếp tục chặt bỏ số diện tích mới trồng để chuyển đổi sang các loại cây khác có hiệu quả hơn.

[13] Đàn bò đạt 29.395 ngàn con, tăng 10.675 con; Đàn heo đạt 200.400 con, tăng 76.421 con; Dê, cừu đạt 9.600 con, tăng 2.264 con; Gia cầm đạt 2,149 triệu con, tăng 419 ngàn con.

[14] Diện tích thả nuôi thủy sản ước đạt 1.700 ha, tăng 3% so với năm trước, tổng sản lượng thủy sản cả năm ước đạt 4.520 tấn, tăng 7,6% so với năm trước.

[15] Toàn tỉnh hiện có 901 trang trại, trong đó có 797 trang trại trồng trọt, 39 trang trại chăn nuôi và 65 trang trại tổng hợp, cấp mới được 24 giấy chứng nhận kinh tế trang trại.

[16] Tương ứng, diện tích đất có rừng tăng trên 993 ha

[17] Đạt 71% kế hoạch được giao; qua rà soát, đối chiếu phù hợp thời vụ trồng rừng thì các đơn vị có thể trồng được khoảng 2.316 ha/KH 2.674 ha, đạt 87% kế hoạch của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao.

[18] Thống kê của lực lượng Công an, từ năm 2001 diện tích rừng bị phá toàn tỉnh lên đến gần 54 ngàn ha (Tuy nhiên, Thống kê của lực lượng kiểm lâm, từ năm 2004 diện tích phá rừng là 10,9 ngàn ha).

[19] Dự án trang trại chăn nuôi bò công nghệ cao Quảng Phú của Công ty Cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai,đầu tư giai đoạn 1 trên diện tích 247 ha, hiện UBND huyện Krông Nô đã bàn giao cho nhà đầu tư 75 ha; Dự án đầu tư nông lâm nghiệp công nghệ cao của Công ty Cổ phần Nông lâm nghiệp Trường Thành, hiện đang triển khai các thủ tục kiểm kê tài sản trên đất; Dự án khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã thu hút được 12 doanh nghiệp đăng ký đầu tư, với tổng mức đầu tư 112,6 tỷ đồng, tiến hành giao 73 ha cho các doanh nghiệp.

[20] Đáng tiếc vào sáng ngày 23/10/2016, xảy ra tranh chấp giữa Công ty Long Sơn và người dân canh tác tại tiểu khu 1535, xã Quảng Trực, huyện Tuy Đức, làm 03 người chết, 15 người bị thương, cơ quan điều tra của Bộ Công an đang điều tra, làm rõ.

[21] Từ đầu năm 2016 đến nay, lực lượng Quản lý thị trường đã tiến hành kiểm tra 1.704 đơn vị, số vụ vi phạm 1.256 vụ; xử lý vi phạm 1.338 hành vi vi phạm.

[22] Toàn tỉnh có 171 cửa hàng xăng dầu 131 cửa hàng khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG).

[23] Hiện toàn tỉnh có 41 chợ đang hoạt động được phân bố trên 37 xã, phường và thị trấn, còn lại 34 xã, phường chưa có chợ.

[24]Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ước đạt: cà phê: 128 triệu USD; hạt điều nhân: 194 triệu USD; tiêu đen: 105,2 triệu USD; Cao su: 0,4 triệu USD; Đậu phộng sấy: 0,4 triệu USD; Tinh bột sắn: 0,5 triệu USD; các sản phẩm khác: 9,8 triệu USD.

[25] Khối lượng vận chuyển hành khách cả năm ước đạt 3,3 triệu HK (tăng 4% so với cùng kỳ), khối lượng vận chuyển hàng hóa đạt 2 triệu tấn (tăng 5% so với cùng kỳ).

[26] Tổng số đơn vị kinh doanh vận tải hành khách trên địa bàn tỉnh là 21 đơn vị; tổng số có 454 xe khác, có 02 tuyến vận tải khách nội tỉnh, 118 tuyến liên tỉnh đi đến 38 tỉnh thành trong cả nước, tăng 08 tuyến so với cùng kỳ. Toàn tỉnh có hiện có 08 bến xe.

[27] Trong đó, tổng lượt khách do cơ sở lưu trú du lịch ước đạt 117 ngàn lượt khách, chiếm 47% trong tổng cơ cấu khách; tổng doanh thu ngành du lịch ước đạt 27 tỷ đồng, tăng 16% so với cùng kỳ.

[28] Trong đó, tổ chức Hội nghị xúc tiến đầu tư và quảng bá du lịch tỉnh Đắk Nông với sự tham gia của 140 doanh nghiệp trong tỉnh và các tỉnh như Đắk Lắk, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh.

[29] Phát triển giá trị di sản Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên; Bảo tồn và phát huy các loại hình văn hóa phi vật thể có nguy cơ thất truyền của các dân tộc thiểu số tại chỗ.

[30] Khu du lịch sinh thái Đray Sáp - Gia Long; Điểm du lịch sinh thái số 1 thác Đắk G'lung; Điểm du lịch sinh thái thác Lưu Ly; Dự án Thiền viện Trúc Lâm Đạo Nguyên; Điểm du lịch sinh thái thác Trinh Nữ; Dự án Tu viện liễu quán, thuộc Quy hoạch khu du lịch sinh thái - văn hóa Tà Đùng.

[31] Dự án Hỗ trợ phát triển  khu vực biên giới, tiểu dự án tỉnh Đắk Nông, vốn vay ADB, Dự án Trường Cao đẳng cộng đồng tỉnh Đắk Nông dự kiến ký kết khoản vay vào tháng 12/2016, 03 dự án đã ký hiệp định.

[32] Hiện toàn tính có 01 ngân hàng 100% vốn nhà nước (Agribank); 02 ngân hàng TMCP, vốn nhà nước chiếm chủ yếu (BIDV, Vietinbank), 03 ngân hàng TMCP (Sacombank, Đông Á, Lienvietpost Bank), 01 chi nhánh NH CSXH và 03 quỹ tín dụng).

[33] Dư nợ phát triển nông nghiệp, nông thôn ước đạt trên 13,1 ngàn tỷ đồng, chiếm 76% tổng dư nợ, tăng 20% dư nợ so với đầu năm. Dư nợ chính sách ước đạt 1.954 tỷ đồng, tăng 12% so với đầu năm, thực hiện tốt 12 chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ.

[34] Tính đến nay, toàn tính có 3.882 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, trong đó có 1.916 doanh nghiệp đang hoạt động,

[35] Theo phương án tái cơ cấu, Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ đối với 06 công ty: Đại Thành, Đắk Wil, Nam Tây Nguyên, Đắk N’tao, Đức Hòa và Quảng Sơn. Chuyển thành Ban quản lý rừng phòng hộ hoạt động theo đơn vị sự nghiệp công lập có thu đối với Công ty TNHH MTV Lâm nghiệp Đắk Măng. Ban hành quyết định giải thể đối với 06 Công ty nông, lâm nghiệp: Gia Nghĩa, Thuận Tân, Quảng Đức, Quảng Tín, Trường Xuân và Đức Lập.

[36] Công ty Cà phê Đức Lập: âm vốn của chủ sở hữu 86,62 tỷ đồng, tổng số nợ phải trả 145 tỷ đồng; Công ty TNHH MTV Nam Nung có số nợ phải trả 104,5 tỷ.

[37] Trong đó nhựa hóa được 20Km đường huyện nâng tỷ lệ nhựa hóa đường huyện từ 80% lên 84%.

[38] Trên địa bàn tỉnh có 213 công trình thủy lợi, trong đó có 186 hồ chứa, 16 đập dâng, 05 trạm bơm và 06 kênh tiêu. Trong năm tiến hành sửa chữa lớn 24 công trình, sửa chữa nhỏ 34 công trình. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện có 06 hồ chứa thủy lợi và 01 hệ thống trạm bơm.

[39] Tổ chức được 48 chương trình văn nghệ phục vụ các sự kiện chính trị và 32 buổi biểu diễn văn nghệ phục vụ cơ sở. Tổ chức được 33 buổi chiếu phim, phục vụ 5.240 lượt người xem và phát hành được 327 đĩa phim tài liệu, thời sự, ca nhạc, phim truyện.

[40] Đã tiến hành sưu tầm 16 hiện vật khảo cổ học và 39 hiện vật văn hóa dân tộc gắn liền với các hoạt động sinh hoạt hằng ngày của người M’nông trên địa bàn tỉnh.

[41] Thực hiện được 13 cuộc trưng bày với hơn 553 hình ảnh, hiện vật và 1.185 bản sách, báo, tạp chí về những thành tựu kinh tế - xã hội của tỉnh; Tổ chức Triển lãm bản đồ và trưng bày tư liệu “Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam - những bằng chứng lịch sử và pháp lý”.

[42] Toàn tỉnh hiện có 03 Trung tâm Văn hóa cấp tỉnh; 05/08 Trung tâm cấp huyện; 18/71 Nhà văn hóa cấp xã; 537/786 nhà văn hóa cấp thôn.

[43] Trong đó: 11 huy chương vàng, 10 huy chương bạc, 27 huy chương đồng.

[44] Toàn tỉnh có 373 cơ sở giáo dục, tăng 4 cơ sở so với cùng kỳ với 159 ngàn học sinh,

[45] Tỉnh có 02 cụm thi, với 6.250 thí sinh dự thi. Hỗ trợ kinh phí dự thi cho các thí sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; tổng số đối tượng dự kiến hỗ trợ là 351 em, với kinh phí dự kiến gần 180 triệu đồng.

[46] Tổng số bệnh nhân đến khám, chữa bệnh tại các bệnh viện là 445.004 lượt, ước số lượt điều trị nội trú là 66.640 lượt, công suất sử dụng giường bệnh ước đạt 90%.

[47] Tình hình mắc một số bệnh truyền nhiễm có khả năng gây dịch: Sốt xuất huyết mắc/chết: ghi nhận 2013 trường hợp mắc; Sốt rét: ghi nhận 146 trường hợp mắc; Tay Chân Miệng: ghi nhận 98 trường hợp mắc.

[48] Tổng số hộ nghèo toàn tỉnh có 27.761 hộ, 123.415 khẩu, chiếm tỷ lệ 19,26% trên tổng số hộ toàn tỉnh; số hộ nghèo tăng 8.680 hộ, tăng 5,51% so với kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo 2014 (Số hộ nghèo năm 2014: 19.081 hộ, chiếm tỉ lệ 13,75%).

[49] Hỗ trợ kịp thời cho 7.276 hộ với 29.806 khẩu với số lượng 600 tấn gạo. Chi trả trợ cấp cho 9.276 đối tượng.

[50] Tổ chức thăm, tặng quà đối tượng chính sách có công, các đơn vị, cá nhân tiêu biểu nhân dịp Tết Nguyên đán với 6.479 suất quà. Thăm tặng quà nhân kỷ niệm 69 năm ngày thương binh liệt sĩ 27/7 với tổng 6.014 suất quà.

[51] Tính đến nay đã và đang triển khai xây dựng và bàn giao, trao tặng 91 căn nhà tình nghĩa với tổng trị giá 6,5 tỷ đồng.

[52] Có 117 người lao động nước ngoài làm việc tại các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.

[53] Đến hết năm 2016 sẽ giải quyết lao động dôi dư cho 10 công ty thực hiện sắp xếp lại, với tổng số 190 người, tổng kinh phí giải quyết lao động dôi dư là 6.5 tỷ đồng.

[54] Năm 2016, có tổng số 12 nhiệm vụ KH&CN thuộc lĩnh vực KHXH&NV và 13 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh thuộc lĩnh vực tự nhiên công nghệ đã và đang được tiếp tục triển khai trong tỉnh.

[55] Trong năm 2016, tiến hành trình 30 hồ sơ giao dất với diện tích 2.088 ha; 21 hồ sơ thu hồi đất với 11.584 ha; cho thuê 22 hồ sơ với 1.578 ha; ký hợp đồng thuê đất với 41 đơn vị, tổ chức.

[56] Tước giấy phép tạm thời 12 đơn vị không nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản, tước 02 giấy phép do không chấp hành nghĩa vụ đối với ngân sách.

[57] Công tác lý lịch tư pháp: cấp 929 phiếu lý lịch tư pháp, cung cấp thông tin 1.208 thông tin cho Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia. Công tác công chứng: công chứng 16.522 trường hợp. Công tác Bán đấu giá: tổ chức thành công 72 phiên. Công tác trợ giúp pháp lý: tổ chức hơn 36 đợt trợ giúp pháp lý lưu động, tư vấn cho 418 trường hợp.

[58] Tiếp nhận và xử lý 85 lượt với 189 công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và phản ánh. Tiếp nhận 131 đơn thư và đã xử lý được 96,2% số đơn thư; tham mưu giải quyết xong 06/12 vụ khiếu nại.

[59] Qua thanh tra đã phát hiện 24 đơn vị sai phạm về kinh tế với số tiền trên 20 tỷ đồng, vi phạm 971 ha đất.

[60] Đến nay, tổng số cột mốc của tỉnh đã xác định là 13 vị trí, với 25 cột mốc. Thực hiện kế hoạch tăng dày cột mốc phụ, sắp tới dự kiến cắm 89 vị trí với 168 mốc phụ, góp phần ổn định hơn tình hình biên giới 2 nước trên vùng biên của tỉnh.

File đính kèm:
Các bài viết khác

 
Thông báo
Website liên kết
Thăm dò dư luận
Lĩnh vực thủ tục hành chính mà doanh nghiệp, nhà đầu tư gặp phiền hà nhất khi thực hiện tại tỉnh Đắk Nông








Thống kê truy cập
trực tuyến 58
ngày hôm nay 520
ngày hôm qua 2041
tuần này 8503
tất cả 247516